Để phát triển và hoàn thiện chuỗi cung ứng hàng nông, thủy sản ĐBSCL trước hết phải phát triển và hoàn thiện hoạt động quản trị logistics liên quan vì “Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm hoạch định và quản lý tất cả các hoạt động liên quan đến tìm nguồn cung, mua hàng, sản xuất và tất cả các hoạt động quản trị logistics…”.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng trọng điểm kinh tế đóng góp khoảng 90% sản lượng gạo, 65% sản lượng thủy sản và 70% sản lượng trái cây xuất khẩu của cả nước. Hàng năm, nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu của ĐBSCL lên đến hàng chục triệu tấn. Tuy nhiên, nông, thủy sản khu vực này chưa phát triển như mong muốn vì có nhiều yếu tố tác động, kìm hãm, trong đó có gánh nặng về chi phí logistics cao, chiếm đến 30% giá thành sản phẩm, dẫn đến giảm sức cạnh tranh của chuỗi cung ứng hàng nông sản. Có nhiều nguyên nhân như: kết cấu hạ tầng logistics, công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch còn hạn chế; việc liên doanh, liên kết, kết nối với nhau để khai thác hiệu quả nguồn hàng hóa dồi dào, cơ sở vật chất của từng đơn vị; các dịch vụ hỗ trợ khác nhằm mở rộng mạng lưới cung ứng dịch vụ nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm chi phí vận tải, chi phí trung gian của các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa trong chuỗi cung ứng trong nước và toàn cầu.
Để phát triển và hoàn thiện chuỗi cung ứng hàng nông, thủy sản ĐBSCL trước hết phải phát triển và hoàn thiện hoạt động quản trị logistics liên quan vì “Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm hoạch định và quản lý tất cả các hoạt động liên quan đến tìm nguồn cung, mua hàng, sản xuất và tất cả các hoạt động quản trị logistics…” (theo định nghĩa của Hiệp hội các nhà quản trị chuỗi cung ứng).
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, phần Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2021-2025 về phát triển các vùng và khu kinh tế đã nêu rõ “Vùng đồng bằng sông Cửu Long: Đẩy mạnh liên kết phát triển và phát triển hạ tầng giao thông kết nối với Vùng Đông Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh. Khai thác lợi thế, phát triển có hiệu quả sản xuất thủy sản, cây ăn quả, lương thực gắn với công nghiệp chế biến, thị trường tiêu thụ, xây dựng thương hiệu sản phẩm”.
Tại kỳ họp họp bất thường lần thứ nhất, Quốc hội khóa XV, tháng 1/2022, Quốc hội đã chính thức thông qua Nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Cần Thơ. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 3 năm 2022 và được thực hiện trong 05 năm. Nghị quyết này có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đối với dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Định An – Cần Thơ và Trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại Cần Thơ.
Thực trạng về hoạt động logistics hiện nay của khu vực ĐBSCL:
Số lượng các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics trong khu vực ĐBSCL còn hạn chế, chưa mạnh và chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ, chưa cung cấp được dịch vụ tích hợp và chất lượng cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu. Theo phân tích của Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), tháng 3/2022, trên cơ sở số liệu thống kê năm 2020, số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, hoạt động theo 17 loại hình dịch vụ logistics được quy định của Nghị định số 163/2017/NĐ-CP “Quy định về kinh doanh dịch vụ logistics” ở 13 tỉnh ĐBSCL như sau: Thành phố Cần Thơ: 327, tình Kiên Giang: 211, tỉnh Long An: 179, tỉnh Tiền Giang: 169, tỉnh An Giang: 133, tỉnh Vĩnh Long: 83, tỉnh Đồng Tháp: 77, tỉnh Hậu Giang: 60, tỉnh Bến Tre: 56, tỉnh Cà Mâu: 56, tỉnh Bạc Liêu: 38, tỉnh Trà Vinh: 38 và tỉnh Sóc Trang: 34. Tổng cộng chỉ có 1.461 doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Logistics ĐBSCL chỉ chiếm khoảng 4.39% số lượng doanh nghiệp logistics của cả nước (1.461 /33.276). Có thể thấy số lượng rất it, nếu cùng tiêu chí này thì Hà Nội là 5.052, Thanh phố Hồ Chí Minh là 10.778. Sự phối kết hợp với các doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu còn là vấn đề cần phải cải thiện nhiều. Giảm chi phí logistics cho hàng nông, hải sản, đáp ứng kịp thời yêu cầu về vận tải, kho bãi là yêu cầu hàng đầu hiện nay, qua đó để nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa xuất nhập khẩu dồi dào của ĐBSCL.
Về hàng hóa: Hàng nông sản đòi hỏi phải vận chuyển nhanh, hoặc thu hoạch xong có nơi bảo quản, sơ chế đúng – đủ tiêu chuẩn. Tuy nhiên các kho lạnh, mát hay nơi tập kết hàng nông sản tại ĐBSCL nhỏ lẻ trừ một số doanh nghiệp chuyên về mặt hàng gạo, cám, còn lại các mặt hàng trái cây – củ thì chưa có hệ thống xử lý đạt chuẩn. Đa số thu hoạch rồi về TP. Hồ Chí Minh và Đồng Nai sơ chế, bảo quản, đóng container.
Lượng vỏ container mà hãng tàu nước ngoài chấp thuận cấp CODE tại các cảng ĐBSCL còn rất hiếm nên phương tiện thủy phải nhận rỗng từ TP. Hồ Chí Minh, tăng chi phí. Hàng hóa tại ĐBSCL mất cân đối vỏ 20′ và 40′ nên không tận dụng được vỏ kết hợp. Ví dụ: hàng xuất chủ yếu là dùng cont 20′, nhưng hàng nhập lại là cont 40′. Tỷ lệ hàng hóa xuất nhập khẩu mất cân đối, hàng xuất chiếm khoảng 65% nhưng hàng nhập chỉ chiếm khoảng 35%.
Các ngành công nghiệp phụ trợ chế biến nông sản tại ĐBSCL chưa đa dạng, các Khu công nghiệp cần thu hút thêm các doanh nghiệp đầu tư, chế biến nông sản, các kho – dây chuyền bảo quản, sơ chế, làm mát … trước khi đóng hàng vào container để sẵn sàng xuất khẩu. Chi phí đầu tư cho kho lạnh, mát tốn kém; hàng hóa trái cây – củ đa số đi theo đường tiểu ngạch nên bị động và rất dễ được mùa nhưng mất giá.
Việc vận chuyển hàng hóa nông, hải sản xuất khẩu chủ yếu là đường bộ và đường thủy nội địa để xếp lên tàu biển, chuyển cảng xuất về Cát Lái, Hiệp Phước, SPITC và các ICD tại Thủ Đức (TP.HCM) và cụm cảng Cái Mép- Thị Vải (TCIT, CMIT, TCTT, SSIT và Gemalink).
Hàng hóa tại Long An, Tiền Giang thường về TP. Hồ Chí Minh bằng container do gần Thành phố nên đa số đi đường bộ. Long An tập trung một số Khu công nghiệp gần Thành phố Hồ Chí Minh nên vận chuyển rất nhanh, thời gian vận chuyển bằng đường bộ về cảng Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 1-2 tiếng. Còn Tiền Giang là tỉnh rộng-dài nên tuỳ từng địa điểm như Cai Lậy hay Cái Bè, Mỹ Tho thì mất khoảng 2-3 tiếng đồng hồ.
Hàng hóa từ các địa phương khác có khoảng 65% hàng hóa được vận chuyển bằng đường thủy. Đối với hàng container, khối lượng vận chuyển kết nối TP. Hồ Chí Minh/Cái Mép – ĐBSCL vào khoảng 250.000 TEU mỗi năm. Thời gian vận chuyển khoảng 30-36 tiếng.
Chi phí vận chuyển thủy rẻ hơn đường bộ khoảng 20%. Tuy nhiên, hàng đông lạnh thì đa số đi đường bộ vì yếu tố đặc thù (thời gian, vỏ container).
Hiện nay tại ĐBSCL có các bến cảng gom hàng để phương tiện thủy/sà lan có thể cập bến nhận hàng như: QT Long An (Long An), Giao Long (Bến Tre), Mỹ Tho (Tiền Giang), Mekong (Vĩnh Long), Cao Lãnh, Sa Đéc, Phước Khang (Đồng Tháp), Mỹ Thới (An Giang), Thốt Nốt, Trà Nóc, Hoàng Diệu, Cái Cui (Cần Thơ); Vinalines Hậu Giang…
Về phương tiện thủy hiện nay chủ yếu dùng sà lan tự hành, trọng tải từ 1,500 tấn đến 3,500 tấn (36-54-72-96-128 TEUs). Đi tuyến luồng chính trên sông Tiền, sông Hậu (các khu vực kênh cắt ngang giữa 02 con sông như Măng Thít, Vàm Nao, Lấp Vò) kết nối về TP. Hồ Chí Minh, rồi từ đó kết nối tiếp đi Cái Mép (Lòng Tàu, Đồng Tranh). Thời gian ĐBSCL – TP. Hồ Chí Minh khoảng 30 tiếng; ĐBSCL – Cái Mép khoảng 36 tiếng đồng hồ.
Hiện nay, một số doanh nghiệp trong đó có Tân Cảng đang cung cấp các giải pháp logistics đồng bộ nhất tại các tỉnh ĐBSCL (từ các cơ sở cảng, đội vận chuyển, văn phòng đại diện, nhân sự làm logistics chuyên nghiệp). Thị phần vận chuyển container chiếm khoảng 70%. Ngoài ra có các doanh nghiệp Gemadept, Toàn Cầu và một số doanh nghiệp tư nhân khác.
Đề xuất, khuyến nghị:
Xuất phát từ tình hình thực tế trên đây, nhằm hoàn thiện chuỗi cung ứng, logistics cho hàng nông sản ĐBSCL chúng ta cần có cách đặt vấn đề một cách toàn diện và liên kết phát triển vùng, gắn với thành phố Hồ Chí Minh và Bà Rịa-Vũng Tàu, với những biện pháp cụ thể, như:
Hoàn thiện cơ sở hạ tầng giao thông đồng bộ: Đặc biệt là các tuyến cao tốc như Trung Lương – Mỹ Thuận – Cần Thơ kết nối với TP. Hồ Chí Minh và Bà Rịa-Vũng Tàu, trong đó có tuyến cao tốc Bến Lức – Long Thành – Vũng Tàu. Qua đó làm giảm thiểu thời gian vận chuyển giữa ĐBSCL với hai khu vực cảng xuất nhập khẩu hàng hóa chính. Về lâu dài cần sớm nghiên cứu phát triển tuyến đường sắt kết nối.
Phát triển đồng bộ các phương thức vận chuyển hàng hóa, đặc biệt là hàng nông thủy sản xuất khẩu, bằng đuờng thủy nội địa và đường biển. Không thu phí kết cấu hạ tầng cảng biển đối với hàng hóa từ các tỉnh ĐBSCL chuyển về TP Hồ Chí Minh/Cái Mép-Thị Vải bằng đường thủy nội địa lẫn đường bộ để xuất khẩu và cả hàng nhập khẩu cho khu vực ĐBSCL. Hiện nay, một số địa phương còn có chính sách khuyến khích cụ thể. Ví dụ như cảng Vũng Áng (Hà tĩnh) khuyến khích doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển container cập/rời cảng Vũng Áng với tần suất tối thiểu 2 chuyến cập cảng mỗi tháng sẽ được hỗ trợ 200.000.000 đồng/chuyến theo Nghị quyết số 276/2021/NQ-HĐND của HĐND tỉnh Hà Tĩnh. Thiết nghĩ, khu vực ĐBSCL đã qui hoạch cảng biển và logistics tại Cần Thơ làm trung tâm phát triển cho ĐBSCL, để khuyến khích các doanh nghiệp khai thác tàu container vận chuyển nội địa và hàng hóa xuất nhập khẩu có thể vào cụm cảng Cần Thơ ngoài việc thiết lập tuyến luồng an toàn cho tàu thì việc có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn từ 1-2 năm đầu khai thác thì sẽ khuyến khích các giải pháp tiết giảm chi phí logistics cho khu vực.
Về vận tải biển, một vấn đề khó khăn hiện nay là chưa có luồng tàu biển có mớn nước đủ sâu để tàu có trọng tải từ 10.000 -20.000 tấn ra vào Cần Thơ và các tỉnh lân cận một cách thuận lợi để vận chuyển hàng hóa nông, thủy sản xuât khẩu. Nghị quyết của Quốc hội đã nêu ở trên có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đối với dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Định An – Cần Thơ. Đây là giải pháp tối ưu hiện nay thay vì xây dựng một cảng nước sâu trong khu vực, hay tìm luồng khác.
Công việc nạo vét luồng hàng hải Định An-Cần Thơ này nên kết hợp công tư, hay tốt nhất là đấu thầu giữa các doanh nghiệp tư nhân có liên kết, liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài, như Hà Lan, Nhật Bản và Singapore – đang mua cát thải để đầu tư mở rộng diện tích phát triển kết cấu hạ tầng. Dự án sẽ thuận lợi và thành công khi được áp dụng hình thức ưu đãi đầu tư như Nghị quyết của Quốc hội “Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong thời gian 15 năm, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 04 năm và giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 09 năm tiếp theo; Miễn tiền thuê đất trong 15 năm và giảm 50% tiền thuê đất cho thời gian còn lại đối với diện tích đất được thuê để đổ chất nạo vét của dự án”.
Phát triển Trung tâm logistics tại Cần Thơ cho hàng hóa cả Khu vực ĐBSCL. Như Nghị quyết của Quốc hội đã đề cập. Trung tâm này sẽ có nhiệm vụ liên kết, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vùng ĐBSCL tại Cần Thơ. Qua trung tâm này sẽ giải quyết việc phân tán trong sản xuất, lưu thông phân phối, không thường xuyên và đủ nhiều hàng cho tàu có trọng tải lớn chuyên chở như hiện nay. Cơ chế thủ tục hải quan, tài chính cần được thực hiện thông thoáng tại Trung tâm này. Qua đó sẽ góp phần giảm đáng kể chi phí logistics cho hàng nông, thủy sản xuất khẩu. Trung tâm logistics khu vực này sẽ được hỗ trợ của “trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại Cần Thơ, được Thủ tướng Chính phủ thành lập phù hợp với các quy hoạch có liên quan, để thu hút dự án đầu tư trong các lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, sản xuất, chế biến và cung ứng dịch vụ, xuất khẩu nông, thủy sản”, như Nghị quyết của Quốc hội đã đề ra: Doanh nghiệp có dự án đầu tư tại Trung tâm được hưởng chế độ ưu tiên về thủ tục hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan và thủ tục về thuế theo quy định của pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Trung tâm khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: Tuân thủ pháp luật về hải quan, pháp luật về thuế trong 02 năm liên tục; Thực hiện thủ tục hải quan điện tử, thủ tục thuế điện tử; có chương trình công nghệ thông tin quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của doanh nghiệp nối mạng với cơ quan hải quan và khách hàng. Bên cạnh đó, có cơ chế chính sách về miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, giao đất, miễn thuế đất từ 5-10 năm cho các doanh nghiệp kinh doanh kho bãi lạnh, cảng biển tại ĐBSCL vì chi phí đầu tư lớn.
Hợp tác giữa các doanh nghiệp liên quan (trong nước và ngoài nước) nhằm tạo dựng dây chuyền kho nông sản, nhất là hệ thống dây chuyền lạnh đủ tiêu chuẩn bảo quản, đóng gói, qui trình sơ chế -xử lý. Qua đó hạn chế tỷ lệ hao hụt hàng hóa trái cây, nông sản, thủy sản sau thu hoạch, hiện nay từ 30%-35%, bảo đảm chất lượng hàng hóa xuất khẩu. Việc kiểm tra chất lượng, chiếu xạ hoa quả cần tiến hành tại chỗ thay vì đưa đi xa như hiện nay. Ứng dụng khoa học công nghệ về thu hoach, bảo quản sau thu hoạch, ứng biến với từng thị trường. Tận dụng được lợi thế về thị trường mới và thuế mà các Hiệp định thương mại tự do như CPTPP, EVFTA và RCEP mang lại. Giảm thiểu hàng hóa xuất khẩu hoa quả tiểu ngạch. Xác định mặt hàng chủ lực của mội địa phương trong khu vực, tập trung qui trình chuẩn và có cơ chế đặc biệt để phát triển thâm nhập các thị trường xuất khẩu khó tính nhất và chính ngạch.
Triển khai và phát triển nguồn nhân lực chuỗi cung ứng và logistics chất lượng cao tại khu vực ĐBSCL để đáp ứng kịp thời nhu cầu hiện tại và trong tương lai. Viện Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Logistics (VLI) của Hiệp hội có thể kết hợp với các Trường Đại học, Đào tạo nghề ở Cần Thơ và trong khu vực ĐBSCL để tổ chức và thực hiện công tác đào tạo này trong 13 tỉnh ĐBSCL.
Tập trung vào việc phát triển các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đủ mạnh, nhất là các doanh nghiệp liên kết hiệu quả với thị trường quốc tế. Thành lập Hiệp hội logistics vùng ĐBSCL với trung tâm là Cần Thơ. Hiệp hội thường xuyên có sự trao đổi, chất vấn – tranh luận bàn giải pháp trực tiếp với Trung tâm xúc tiến đầu tư, sở công thương của các tỉnh trong khu vực nhằm tập hợp và phát triển các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics trong khu vực, đầu mối liên kết các doanh nghiệp và các chính quyền địa phương nhằm thúc đẩy hoạt động logistics có hiệu quả ở khu vực ĐBSCL và trong cả nước. Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) sẽ hỗ trợ việc phát triển này.
Thực hiện được các đề xuất chính trên đây chắc chắn sẽ góp phần vào việc giảm chi phí logistics đang cao của hàng hóa DBSCL, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trong chuỗi cung ứng, đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, tăng thu nhập cho người sản xuất và phát triển mạnh kinh tế liên kết khu vực ĐBSCL./.
Tác giả: Nguyễn Tương – Thanh Tâm