Không áp dụng các loại thuế, phí và nghĩa vụ tài chính của Luật Khoáng sản đối với vật chất nạo vét duy tu vùng nước cảng biển.
Đó là một trong số bốn kiến nghị do các Hiệp hội doanh nghiệp liên quan đến hoạt động cảng biển và Logistics Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ về việc thu thuế Tài nguyên, phí Bảo vệ môi trường cho hoạt động nạo vét khơi thông luồng lạch tại khu vực Cái Mép, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Các Hiệp hội bao gồm: Hiệp hội Cảng biển Việt Nam; Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam; Hiệp hội Đại lý, Môi giới và Dịch vụ Hàng hải Việt Nam; Hiệp hội Chủ tàu Việt Nam.
Những đề xuất này bày tỏ quan điểm xung quanh văn bản số 51/BC-STNMT tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày 15/3/2023 đề nghị áp dụng Luật Khoáng sản và thu thuế Tài nguyên đối với 22 doanh nghiệp đã nạo vét, duy tu khu nước trước bến, cảng biển có sử dụng khối lượng vật liệu nạo vét để san lấp khu vực tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Thời điểm áp dụng từ năm 2018.
Cảng nước sâu Cái Mép
Hiện nay, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu là tỉnh duy nhất của cả nước đang áp dụng quy định của Luật Khoáng sản và thu thuế đối với các doanh nghiệp đã nạo vét, duy tu khu nước trước bến, cảng biển có sử dụng khối lượng vật liệu nạo vét để san lấp khu vực tỉnh.
Theo phân tích của các Hiệp hội, về quy định: Vật chất nạo vét không phải là khoáng sản hay vật liệu xây dựng, chỉ là sa bồi dạng bùn lỏng, sệt, không hoặc chứa rất ít cát sỏi, sét… nên không thể áp dụng Luật Khoáng sản hay Luật Tài nguyên. Còn về vấn đề thủ tục, các cảng không có chức năng khai thác khoáng sản và cũng không được hướng dẫn cụ thể từ cơ quan chức năng cho các doanh nghiệp về việc phải đóng các khoản thuế phí theo pháp luật về khoáng sản. Ngoài ra, vì bùn thải đang bị xem là khoáng sản nên phát sinh hàng loạt các vướng mắc dẫn đến doanh nghiệp cảng không thể hoàn thành hồ sơ xin triển khai duy tu nạo vét thủy diện, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh khai thác cảng và an toàn hàng hải.
Nhận định về tính kinh tế, các Hiệp hội cho rằng: Việc nạo vét là nhu cầu tất yếu phục vụ hoạt động của cảng, mang tính “bảo trì, bảo dưỡng” công trình để duy trì độ sâu trước bến phù hợp, đảm bảo an toàn khi tiếp nhận tàu thuyền vào – rời cảng khai thác, không nhằm mục đích kinh doanh, không mang lại giá trị kinh tế trực tiếp cho cảng. Mặt khác, cảng còn phải rất khó khăn trong tìm kiếm các vị trí đổ thải ở các tỉnh lân cận, vận chuyển, chịu toàn bộ chi phí không nhỏ phát sinh cho việc đổ thải này. Bên cạnh đó, vì bùn thải đang bị xem là khoáng sản nên các cảng đang bị yêu cầu thực hiện các nghĩa vụ tài chính về khai thác khoáng sản (bao gồm truy thu đối với cả các dự án duy tu nạo vét trước đây).
Công văn kiến nghị của 4 hiệp hội
Từ những phân tích và nhận định trên, 4 Hiệp hội này kiến nghị một số đề xuất nhằm tháo gỡ vướng mắc liên quan đến việc áp dụng thu Thuế Khoáng sản tại khu vực cảng nước sâu Cái Mép. Cụ thể:
Thứ nhất, không áp dụng các quy định của Luật Khoáng sản đối với hoạt động nạo vét duy tu các khu nước, vùng nước trước cảng.
Thứ hai, không áp dụng các loại thuế, phí và nghĩa vụ tài chính của Luật Khoáng sản đối với vật chất nạo vét duy tu vùng nước cảng biển.
Thứ ba, không hồi tố đối với các dự án nạo vét đã thực hiện trước đây.
Cùng với đó nhanh chóng giải quyết sớm các hồ sơ thủ tục nạo vét nhằm hỗ trợ các cảng triển khai duy tu nạo vét kịp thời, đảm bảo hoạt động khai thác cảng an toàn và hiệu quả và đảm bảo chất lượng dịch vụ của cảng đối với khách hàng, hãng tàu quốc tế cũng như việc thu hút đầu tư, thương mại của tỉnh BRVT nói riêng và Việt Nam nói chung.
“Chúng tôi rất mong nhận được sự quan tâm, đổi mới quyết liệt và mạnh mẽ hơn nữa của các cơ quan, ban, ngành, qua đó, tạo điều kiện tốt nhất để cho khát vọng kinh tế biển Việt Nam trở thành hiện thực”, 4 Hiệp hội doanh nghiệp liên quan đến hoạt động cảng biển và Logistics Việt Nam nhấn mạnh.
Nguồn: diendandoanhnghiep.vn